Người êđê là gì? Các công bố khoa học về Người êđê
Người Êđê là một dân tộc thiểu số sinh sống mainly tại các tỉnh Gia Lai, Đắk Lắk và Kon Tum ở miền Trung Việt Nam. Họ có văn hóa riêng, ngôn ngữ và truyền thống...
Người Êđê là một dân tộc thiểu số sinh sống mainly tại các tỉnh Gia Lai, Đắk Lắk và Kon Tum ở miền Trung Việt Nam. Họ có văn hóa riêng, ngôn ngữ và truyền thống độc đáo. Người Êđê thường sống dân cư và gắn bó chặt chẽ với tổ tiên, các gia đình thường có nhiều thế hệ sống chung tại một ngôi nhà rông. Ngoài ra, người Êđê cũng nổi tiếng với nghệ thuật dệt và đồ gốm truyền thống.
Người Êđê là một dân tộc thiểu số trong việt nam. Họ là một trong những dân tộc tự gọi mình là "mọi". Người Êđê chủ yếu sinh sống tại các tỉnh Gia Lai, Đắk Lắk và Kon Tum ở miền Trung Việt Nam. Họ thuộc nhóm ngôn ngữ Mon-Khmer và có ngôn ngữ riêng gọi là êđê.
Văn hóa của người Êđê phản ánh sự hòa quyện giữa đời sống người nông dân và đời sống người săn bắn. Họ có nền văn hóa phong phú và truyền thống độc đáo như: trồng cây lừu quyên (một loại cây có tác dụng trừ tà và bảo vệ gia đình khỏi tai họa), xây dựng nhà rông (nhà dân tộc Êđê có hình dáng hình chiếc gỗ mỡ có mặt lưng cao, trước và sau thấp nằm trên sân nhà, là nơi diễn ra các hoạt động cống hiến tôn giáo, văn hóa và xã hội).
Người Êđê sinh hoạt theo hình thức hội đồng bàn thảo do trưởng làng chủ trì. They have a rich mythology and worship their ancestral spirits, known as yang, who are believed to have the power to influence their daily lives. Các nghi lễ tôn giáo, như lễ hội mùa màng, lễ đầu năm mới và lễ hội cầu mưa, đóng vai trò quan trọng trong đời sống của người Êđê.
Nghệ thuật dệt là một phần quan trọng trong văn hóa người Êđê. They are skilled weavers, creating intricate patterns on fabrics using traditional looms. Họ cũng nổi tiếng với nghệ thuật đồ gốm, sản xuất các đồ gốm truyền thống với các hình vẽ độc đáo.
Người Êđê cũng có nền ẩm thực đa dạng và đặc biệt. Some popular dishes include piru (grilled pork), rhưăt (grilled beef), and nguyôm (sticky rice wrapped in leaves). Một nét đặc trưng khác của người Êđê là trang phục truyền thống, bao gồm áo dài bằng nhung màu đen, đồ bông màu sáng và các phụ kiện bộc pháp truyền thống như vòng cổ, vòng tay và các loại mũ độc đáo.
Tuy người Êđê vẫn giữ được nhiều đặc trưng văn hóa truyền thống, nhưng sự phát triển kinh tế và tiếp xúc với các nền văn hóa khác đã có ảnh hưởng đến cộng đồng này, khiến họ phải thích nghi và thay đổi một số phương diện. Tuy nhiên, với lòng tự hào về nguồn gốc và bản sắc dân tộc, người Êđê tiếp tục duy trì và bảo tồn nét văn hóa độc đáo của mình.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "người êđê":
Nghiên cứu này xác định phản ứng của con người đối với sự tăng nồng độ dexmedetomidine trong huyết tương.
Mười nam giới khỏe mạnh (tuổi 20-27) đã cung cấp sự đồng ý và được theo dõi (thực hiện điện tâm đồ, đo huyết áp động mạch, áp lực tĩnh mạch trung ương [CVP] và áp lực động mạch phổi [PAP], lưu lượng tim, độ bão hòa oxy, lượng carbon dioxide cuối thì thở ra [ETCO2], hô hấp, khí máu và catecholamines). Các phép đo huyết động học, lấy mẫu máu, cũng như các bài kiểm tra tâm lý, bài test nén lạnh và phản ứng baroreflex được thực hiện khi nghỉ ngơi và trong quá trình truyền tĩnh mạch dexmedetomidine liên tiếp trong 40 phút với các nồng độ (0.5, 0.8, 1.2, 2.0, 3.2, 5.0, và 8.0 ng/ml; bài kiểm tra phản ứng baroreflex chỉ thực hiện ở 0.5 và 0.8 ng/ml).
Liều ban đầu của dexmedetomidine đã làm giảm catecholamines từ 45-76% và loại bỏ sự gia tăng norepinephrine được quan sát thấy trong bài kiểm tra nén lạnh. Sự ức chế catecholamine vẫn tồn tại trong các lần truyền tiếp theo. Hai liều đầu tiên của dexmedetomidine đã làm tăng mức độ còn tỉnh táo 38% và 65%, đồng thời giảm huyết áp động mạch trung bình 13%, nhưng không thay đổi áp lực tĩnh mạch trung ương hay áp lực động mạch phổi. Các liều cao hơn tiếp theo đã làm tăng mức độ còn tỉnh, tất cả các chỉ số áp lực và tính toán sức cản mạch máu, gây ra sự giảm đáng kể về nhịp tim, lưu lượng tim và thể tích nhát bóp. Khả năng hồi tưởng và nhận diện đã giảm ở liều trên 0.7 ng/ml. Đánh giá đau và tăng huyết áp động mạch trung bình trong bài kiểm tra nén lạnh giảm dần khi liều dexmedetomidine tăng lên. Sự chậm nhịp tim do thử thách phenylephrine đã được tăng cường ở cả hai liều dexmedetomidine. Các biến số hô hấp thay đổi ở mức tối thiểu trong suốt thời gian truyền, trong khi tính axit-bazơ không thay đổi.
MỤC TIÊU—Giá trị lâm sàng của hội chứng chuyển hóa vẫn còn không chắc chắn. Do đó, chúng tôi đã xem xét khả năng dự đoán bệnh tim mạch (CVD) và nguy cơ đái tháo đường theo các định nghĩa của hội chứng chuyển hóa từ Chương trình Giáo dục Cholesterol Quốc gia (NCEP)-Hội đồng điều trị người lớn III (ATPIII), Liên đoàn Đái tháo đường Quốc tế và Tổ chức Y tế Thế giới.
THIẾT KẾ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU—Chúng tôi đã phân tích các rủi ro liên quan đến hội chứng chuyển hóa, các hạng mục yếu tố nguy cơ đa dạng của NCEP, và giá trị glucose 2 giờ trong Nghiên cứu Tim mạch San Antonio (n = 2,559; độ tuổi từ 25–64; thời gian theo dõi 7,4 năm).
KẾT QUẢ—Cả hội chứng chuyển hóa ATPIII cộng với độ tuổi ≥45 năm (tỷ lệ odds 9.25 [CI 95% 4.85–17.7]) và nhiều yếu tố nguy cơ (hai hoặc nhiều hơn) cộng với nguy cơ bệnh tim thiếu máu cục bộ (CHD) trong 10 năm từ 10–20% (11.9 [6.00–23.6]) đều có nguy cơ CVD tương tự ở nam giới không mắc CHD, cũng như các nguy cơ tương đương của CHD. Ở nhóm phụ nữ, nhiều yếu tố nguy cơ (hai hoặc nhiều hơn) cộng với nguy cơ CHD trong 10 năm từ 10–20% là không phổ biến (10 trên 1,254). Tuy nhiên, dù là nguy cơ CHD trong 10 năm từ 5–20% (7.72 [3.42–17.4]) hoặc hội chứng chuyển hóa ATPIII cộng với độ tuổi ≥55 năm (4.98 [2.08–12.0]) đều dự đoán CVD. Hội chứng chuyển hóa ATPIII đã tăng diện tích dưới đường cong đặc trưng cho khả năng dự đoán của một mô hình chứa các yếu tố tuổi, giới tính, nguồn gốc dân tộc, tiền sử gia đình đái tháo đường, và giá trị glucose 2 giờ cũng như glucose khi nhịn ăn (0.857 so với 0.842, P = 0.013). Tất cả ba định nghĩa về hội chứng chuyển hóa đều đưa ra các nguy cơ CVD và đái tháo đường tương tự.
KẾT LUẬN—Hội chứng chuyển hóa có liên quan đến nguy cơ CVD đáng kể, đặc biệt là ở nam giới từ 45 tuổi trở lên và phụ nữ từ 55 tuổi trở lên. Hội chứng chuyển hóa dự đoán nguy cơ đái tháo đường vượt ngoài sự không dung nạp glucose đơn thuần.
- 1
- 2
- 3